Loài cừu có quan hệ họ hàng với linh dương, gia súc, chuột xạ hương và loài dê. Tất cả những loài động vật có vú này đều là động vật móng guốc chẵn tách thành hai ngón chân. Chúng cũng là loại động vật nhai lại và hầu hết các chúng đều có cặp sừng lớn và uốn cong. Theo Susan Schoenian là 1 chuyên gia cừu và dê tại Đại học Trung tâm Nghiên cứu & Giáo dục phương Tây Maryland Maryland. Người ta đã ước tính rằng có đến hơn 10.000 giống khác nhau của cừu trên toàn thế giới. Do đó chúng vô cùng đa dạng về kích thước.
Table of Contents
Giới thiệu chung về loài cừu
Cừu nhà còn được gọi là trừu, chiên, mục dương, dê đồng là một loài gia súc trong động vật có vú thuộc Họ Trâu bò. Đây là một trong những loài gia súc được con người thuần hóa sớm nhất để nuôi lấy lông, thịt, sữa, mỡ và da.
Đàn cừu trên thế giới hiện nay là trên 1 tỷ con. Cừu có nhiều khả năng được thuần hóa từ loài hoang dã mouflon của châu Âu và châu Á. Một trong những động vật được thuần hóa sớm nhất để phục vụ cho mục đích nông nghiệp như lấy len, thịt và sữa.
Lông cừu là loại sợi động vật được sử dụng rộng rãi nhất, và thường được thu hoạch bằng cách cắt lông. Thịt cừu được gọi là cừu tơ khi lấy từ các con nhỏ và thịt cừu khi lấy từ các con già hơn. Cừu vẫn là một loại gia súc cung cấp thịt và lông quan trọng cho đến ngày nay, và người ta cũng lấy da, sữa và động vật cho nghiên cứu khoa học. Giống cừu lấy thịt nổi tiếng là cừu Lincoln (Anh).
Hệ tiêu hóa của loài cừu
Cừu là động vật có vú ăn rất nhiều cỏ. Hầu hết chúng gặm cỏ và ăn các loại cỏ khô khác. Tránh các phần thực vật có gỗ nhiều so với dê. Cả cừu và dê dùng môi và lưỡi của chúng. Để chọn những phần thực vật dễ tiêu hóa và có nhiều dinh dưỡng. Tuy nhiên, cừu chăn thả tốt ở khu vực đồng cỏ trong khi dê lại không thích hợp.
Giống như tất cả động vật nhai lại, cừu có một hệ tiêu hóa phức tạp gồm bốn ngăn. Cho phép chúng phân hủy cellulose từ thân, lá và hạt thành các carbohydrat đơn giản hơn. Khu chăn thả cừu, thực vật được nhai thành khối được gọi là Bolus (tiêu hóa), khối này sau đó được đưa vào dạ cỏ thông qua dạ tổ ong. Dạ cỏ chứa khoảng 19 đến 38 lít nơi lên men thức ăn.
Theo Web Đa dạng Động vật của Đại học Michigan (ADW): Việc lai tạo chọn lọc đã tạo ra những con cừu có hoặc không có sừng, lông cừu và tai ngoài. Chúng có chiều dài từ 4 đến 6 feet (120 đến 180 cm) và từ 2 đến 4 feet (65 đến 127 cm) ở vai.
Một số chuyên gia, chẳng hạn như Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN). Coi tổ tiên hoang dã của cừu urial như một loài riêng biệt (Ovis orientalis). Những loài khác, chẳng hạn như ADW phân loại chúng thành hai phân loài của Ovis aries .
Nơi sinh sống của loài cừu
Cừu là một trong những động vật đầu tiên được thuần hóa và chúng được nuôi khắp nơi trên thế giới. Cừu hoang dã cũng sống trên khắp thế giới như ở Trung Đông, Châu Á, Trung Âu và Bắc Mỹ chủ yếu là ở các khu vực miền núi.
Cừu Bighorn sống ở vùng Rocky Mountain của Bắc Mỹ. Cừu bighorn sa mạc sống ở thung lũng Chết California cũng như Nevada, Texas và miền bắc Mexico. Chúng có thể sống trên những ngọn núi sa mạc cao tới 1.200 feet (1.200 m). Cừu Urials có thể sống cao hơn chúng được tìm thấy ở châu Á và Trung Đông trên các địa hình cỏ có độ cao lên tới 6.000 m.
Tập tính của cừu
Con cừu là loài động vật theo xã hội. Con đực có bầy đàn riêng gọi là bầy độc thân. Những đàn này thường chứa từ 5 đến 50 con cùng một lúc. Những con cái sống trong các đàn trẻ. Đàn con non có thể có từ 5 đến 100 thành viên bao gồm cả con cái trưởng thành và con non.
Những con cừu đực tranh giành quyền thống trị trong nhóm của chúng. Một số húc nhau với tốc độ lên đến 20 dặm/giờ (32km/giờ). Sự thống trị đạt được khi một con đực phục tùng và quá trình này có thể mất hàng giờ.
Chế độ dinh dưỡng của cừu
Cừu là động vật ăn cỏ, có nghĩa là chế độ ăn uống của chúng không bao gồm thịt. Chúng thường ăn hạt, cỏ và thực vật. Giống như tất cả các loài nhai lại, chúng có dạ dày nhiều ngăn để thích nghi với quá trình lên men xenluloza trước khi tiêu hóa. Để tiêu hóa hoàn toàn thức ăn, cừu sẽ trào thức ăn vào miệng, nhai lại và nuốt. Thức ăn bị trào ngược này được gọi là cud.
Một số trong loài cừu này không cần nhiều nước. Ví dụ, loài cừu bighorn sa mạc lấy phần lớn nước từ việc ăn thực vật, theo Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Los Angeles .
Tập tính sinh sản ở cừu
Những con cừu đực đấu tranh để giành quyền giao phối với những con cái. Và con khỏe nhất thường là con duy nhất được phép giao phối. Mùa giao phối được gọi là động dục, diễn ra vào mùa thu. Sau khi giao phối, cừu cái có thời gian mang thai khoảng năm tháng. Chúng thường sinh một hoặc hai con cùng một lúc vào mùa xuân.
Mặc dù chúng thường phụ thuộc vào mẹ trong 4 đến 6 tháng đầu đời. Nhưng những chú cừu con có thể đi bộ chỉ vài phút sau khi được sinh ra. Chúng được cai sữa khoảng 4 đến 6 tháng và trưởng thành về giới tính trong khoảng 1 năm rưỡi đến 5 năm, tùy thuộc vào loài và giới tính. Ví dụ, cừu argali đực không trưởng thành về mặt giới tính cho đến khi 5 tuổi. Trong khi con cái trở nên trưởng thành về giới tính ở tuổi 1 hoặc 2.
Theo danh sách Đỏ các loài bị đe dọa của IUCN; hầu hết các con cừu được liệt kê là mối quan tâm ít nhất và không có nguy cơ tuyệt chủng. Tuy nhiên, cừu được phân loại ở đây là Ovis orientalis, với tám phân loài được tìm thấy ở Địa Trung Hải và Trung Đông. Được liệt kê là sẽ nguy cấp.
Xem thêm những bài viết khác tại đây.